Thứ 7, 15-10-2011 , 03:43:00 PM



Chỉ mục bài viết:
Hội đồng trọng tài là một chế định trung tâm và quan trọng nhất nằm trong thiết chế trọng tài thương mại theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 vừa được Quốc hội thông qua.
Trong chế định này, một trong những vấn đề cần được nghiên cứu để hiểu rõ bản chất của hoạt động trọng tài thương mại là vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Dưới đây, trong bài viết này các Luật sư của công ty Luật Á Đông  tập trung phân tích các quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để làm sáng tỏ vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nói riêng và lý luận về thẩm quyền của trọng tài thương mại nói chung. 
 
Đặt vấn đề:
Luật Trọng tài Thương mại ( Luật TTTM) đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngayg 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Luật sẽ thay thế Pháp lệnh Trọng tài Thương mại do Ủy nam Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2003.
Mục đích quan trọng của việc xây dựng Luật TTTM là thể chế hóa kịp thời và đầy đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc mở rộng các hình thức giải quyết tranh chấp trong các hoạt động kinh doanh, thương mại và các quan hệ dân sự khác, khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng hình thức trọng tài; làm cho trọng tài thực sự trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp linh hoạt, thuận lợi, có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của các quan hệ thị trường, đồng thời đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và đầy đủ.
Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài Thương mại ( PL TTTM) năm 2003 và trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh doanh, vận dụng tối đa các chuẩn mực và kinh nghiệm quốc tế, Luật TTTM có nhiều điểm mới cơ bản. Trong số các điểm mới đó có những quan điểm và quy định liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài (HĐTT) trong quá trình tố tụng trọng tài. Những quy định mới này là kết quả không chỉ của quá trình tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm, vận dụng các nguyên lý và thực tế phổ biến trong phạm vi quốc tế, mà còn là kết quả của một quá trình tranh luận giữa các quan điểm liên quan đến bản chất và tính chất của Trọng tài, trách nhiệm của Trọng tài viên, mối quan hệ giữa Trọng tài và Tòa án.
Dưới đây là những quan điểm cá nhân về những nội dung cơ bản của Luật TTTM Việt Nam năm 2010 về những vấn đề liên quan đến thẩm quyền của HĐTT trong Luật TTTM 2010.

 Cơ sở về nguyên lý:    
    Có thể nhận định một cách chắc chắn rằng, trong hệ thống các chế định của một nhà nước, hoạt động của chế định Trọng tài có rất nhiều đặc điểm khác biệt so với chế định Tòa án, mặc dù cả hai chế định đều mang bản chất tài phán. Nếu như các thẩm quyền của Toàn án bao gồm thẩm quyết xét xử và ra phán quyết là do pháp luật quy định để Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước từ đó hoàn toàn có thể độc lập để xét xử và ra phán quyết, thì HĐTT bị chi phối   bởi nhiều yếu tố cùng một lúc: trước hết là ý chí của các bên thông qua thỏa thuận trọng tài và sự lựa chọn trọng tài viên; kế đó là sự điều chỉnh của pháp luật liên quan đến thỏa thuận trọng tài và nơi thi hành quyết định trọng tài.
Chính vì vậy, về bản chất, Trọng tài mà cụ thể là Hội đồng trọng tài luôn phải có đủ tố chất, để một mặt, bảo đảm tính ổn định và có hiệu lực của phán quyết, đảm bảo tính chung thẩm của phán quyết trọng tài và ràng buộc các bên, mà suy cho cùng là tạo niềm tin của các bên vào kết quả giải quyết tranh chấp, mặt khác, đó là áp lực từ phía những lợi ích công trước khả năng sai lầm của việc giải quyết tranh chấp bởi những lý do khác từ phía các Trọng tài viên. Đó cũng là đòi hỏi cơ bản của nguyên tắc giải quyết tranh chấp công bằng.
Xuất phát từ những quan điểm đó, Luật TTTM Việt Nam năm 2010 đã quy định một hệ thống các thẩm quyền của HĐTT nằm rải rác ở nhiều chương, điều, khoản khác nhau. Nhưng tựu chung có thể chia ra làm mấy loại thẩm quyền sau đây:
-              Thẩm quyền do các bên trao cho HĐTT.
-              Thẩm quyền do pháp luật quy định.
-              Thẩm quyền do chính Hội đồng quyết định cho mình.
Dưới đây, chúng ta nghiên cứu những loại thẩm quyền đó trong Luật TTTM.
1.     Thẩm quyền của Hội đồng TT do các bên trao
Như đã nêu ở trên, bản chất chủ yếu của Trọng tài là ở chỗ Hội đồng TT chỉ tồn tại khi có ý chí của các bên tranh chấp. Khác hẳn với Tòa án, vụ việc được HĐTT giải quyết chính là do các bên đưa ra( có sự đồng thuận) và có thể nói không sai rằng, HĐTT là một hội đồng của các bên, cho dù Hội đồng đó là của Trọng tài thường trực hay là Trọng tài adhoc.
Vì vậy, những thẩm quyền đầu tiên là những thẩm quyền mà các bên trao cho Hội đồng TT dưới hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp.
Luật TTTM Việt Nam năm 2010 xác định các thẩm quyền mà HĐTT có được do các bên tranh chấp trao trực tiếp cho Hội đồng. Đó là các thẩm quyền được biểu đạt theo cách: “Nếu các bên không có thỏa thuận khác”, hoặc “ trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Theo đó, ý chí của các bên mặc nhiên được chuyển thành thẩm quyền của HĐTT. Đó là những trường hợp liên quan đến địa điểm giải quyết tranh chấp (Điều 11), gửi thông báo và trình tự gửi thông báo (Điều 12), Luật áp dụng trong trường hợp tranh chấp có yếu tố nước ngoài ( khoản 2 Điều 14); thẩm quyền tìm hiểu sự việc từ người thứ ba với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các bên biết (Điều 46), quyền yêu cầu người làm chứng cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ tranh chấp, quyền trưng cầu giám định, tham vấn ý kiến chuyên gia, định giá tài sản trong vụ tranh chấp để làm căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp ( Điều 47), triệu tập người làm chứng ( Điều 48).
Điểm rất mới của Luật TTTM năm 2010 là quy định về thẩm quyền của HĐTT áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ( các Điều 50, 51) và thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 52).
Về nguyên tắc, HĐTT không được tự mình quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, mà chỉ được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu của một trong các bên tranh chấp. Trường hợp HĐTT quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo đúng yêu cầu của đương sự mà gây thiệt hại cho bên bị áp dụng hoặc cho người thứ ba, thì HĐTT không phải chịu trách nhiệm bồi thường mà bên yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, nếu HĐTT quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác hoặc vượt quá yêu cầu của bên yêu cầu mà gây thiệt hại cho bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì HĐTT phải bồi thường.
Như vậy, thẩm quyền này thuộc loại thẩm quyền hoàn toàn do các bên xác định và giao cho HĐTT. Về lý thuyết, có thể phát sinh hai trường hợp: Trường hợp HĐTT áp dụng đúng biện pháp mà đương sự yêu cầu, nhưng quá mức độ yêu cầu, và trường hợp HĐTT áp dụng biện pháp khác so với biện pháp mà đương sự yêu cầu, và trong cả hai trường hợp đều gay thiệt hại cho bên bị áp dụng hoặc cho người thứ ba.
Xuất phát từ quan điểm về ý chí trực tiếp của các bên trong việc trao quyền cho HĐTT, Luật TTTM 2010 đã quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về HĐTT tại Điều 51.
2.     Thẩm quyền do pháp luật quy định
Luật TTTM năm 2010 đã có những quy định mới so với Pháp lệnh TTTM năm 2003 theo hướng giao cho HĐTT những thẩm quyền nhằm các mục đích: bảo đảm tính chung thẩm của phán quyết trọng tài và bảo vệ lợi ích công. Những quy định đó được thể hiện theo hai cách: 1) Pháp luật trao thẩm quyền trực tiếp cho HĐTT hành xử vấn đề nảy sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp; 2) Pháp  luật quy định quyền của Tòa án quyết định thay cho HĐTT.
Những thẩm quyền mà pháp luật trao cho HĐTT tự quyết định là xuất phát từ nhận thức được thừa nhận rộng rãi rằng, tuy HĐTT được thành lập và tồn tại là do ý chí của các bên nhưng một khi đã tồn tại rồi thì Hội đồng buộc phải đứng ở vị trí vững vàng về chuyên môn nhằm chứng tỏ khả năng cân bằng ý chí của các bên và yêu cầu của trật tự công. Quyết định hay phán quyết của HĐTT là của Hội đồng chứ không thể là của các bên. Tính chất tài phán của HĐTT chính là ở chỗ đó. Do đó, có thể nói không sai rằng, quyền lực và ý chí của các bên đã được chuyển giao cho HĐTT kể từ khi Hội đồng được thành lập và đi vào hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
    Luật TTTM năm 2010 quy định các trường hợp sau đây là trường hợp thẩm quyền của HĐTT được xác định bởi pháp luật mà không do các bên quyết định:
Luật áp dụng đối với các trường hợp tranh chấp không có yếu tố nước ngoài. Trong trường hợp đó, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp là pháp luật Việt Nam ( Khoản 1, 4 Điều 14). Phí trọng tài ( Khoản 2 Điều 35); Quyền của HĐTT không chấp nhận các sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn kiện lại hoặc Bản tự bảo vệ nếu thấy rằng việc đó có thể bị lạm dụng nhằm gây khó khăn, trì hoãn việc đưa ra phán quyết trọng tài hoặc vượt quá phạm vi của thỏa thuận trọng tài áp dụng cho vụ tranh chấp ( Khoản 2 Điều 38).
Luật TTTM năm 2010 đã xác định rõ ràng, đầy đủ hơn về trách nhiệm của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài với nhận thức sâu sắc rằng, không thể có trọng tài hiệu quả nếu không có Tòa án tốt, với sự hỗ trợ đắc lực của Tòa án.
Từ phương diện thẩm quyền của HĐTT, việc yêu cầu Tòa án có thể được chia làm hai loại: 1) Những trường hợp Tòa án hẫu thuẫn mang tính quyền lực cho việc thực hiện các quyết định của HĐTT để các quyết định đó có thể được thực hiện; 2) Những trường hợp Tòa án chỉ đơn thuần là hỗ trợ cho HĐTT.
Các quy định về đề nghị của HĐTT để Tòa án triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ ( các điều 47, 48) là những quy định thuộc trường hợp thứ nhất; các quy định về đăng ký phán quyết trọng tài (Điều 63) là quy định thuộc trường hợp thứ hai.
Trong tố tụng trọng tài, về bản chất, có thể hiểu những thẩm quyền của Tòa án phát sinh từ yêu cầu của HĐTT chính là thẩm quyền của HĐTT chứ không đơn thuần là thẩm quyền của Tòa án. Về bản chất, các thẩm quyền đó được chuyển hóa thành những thẩm quyền có tính quyền lực của Nhà nước.
 
Luật sư Hoàng Ngọc Bính - Công ty Luật Á Đông
  
______________________

Hãy tăng thu nhập của bạn cùng chúng tôi: Chương trình chiết khấu 20% - 25% trên tổng giá trị mỗi hợp đồng mà bạn giới thiệu cho Công ty Luật Á Đông .....

______________________

"Công ty Luật Á Đông: Dịch vụ công chứng chứng thực, Dịch vụ thành lập công ty, dịch vụ kế toán, business registration certificate, thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh, thủ tục thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh,  thủ tục chuyển nhượng đất đai, sở hữu trí tuệ, M&A, thủ tục giải quyết tranh chấp, hợp đồng, các thủ tục hành chínhDịch vụ hợp pháp hóa lãnh sự (consular legalization in Vietnam),  và các dịch vụ pháp lý khác...hotline: 0904253822 - 04.6681411 

CÁC TIN LIÊN QUAN

Giới thiệu

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.

Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...

Hotline

Hotline:

024.665.69.121 -

Thống kê