Làm gì có mà đi tìm
Chủ nhật, 04-05-2014 , 08:53:00 AM
Một câu hỏi mà gần 30 năm qua Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh vẫn chưa có câu trả lời, đó là thế nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một ngày cuối năm ngoái, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh được mời đến nói chuyện về các vấn đề kinh tế ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Thính giả là các lãnh đạo của hầu hết các tỉnh, thành phố. Kết thúc buổi nói chuyện, nhiều người hỏi bộ trưởng, thế nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ông đáp: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”. Gần ba mươi năm trước, khi còn là bí thư chi bộ kiêm lớp trưởng của một lớp lý luận cao cấp học tại học viện, ông Vinh cũng đã hỏi câu hỏi đó với các thầy giáo là các nhà lý luận, nhưng không được trả lời. Nay, câu hỏi đó vẫn làm băn khoăn những thế hệ sau ông.
Qua nhiều nghiên cứu sau đổi mới, định nghĩa về thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vẫn chưa được xác định rõ, theo chuyên gia kinh tế Võ Đại Lược. Ông nói: “Chúng ta là nền kinh tế thị trường duy nhất trên thế giới lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, làm kinh tế thị trường bị biến dạng, gia tăng vai trò can thiệp hành chính của Nhà nước”. Lý luận chưa thông đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề trên thực tế, như doanh nghiệp nhà nước ngày càng lớn, chi tiêu công phình to, số công chức trong hệ thống nhà nước không thể tinh giản, phân bố nguồn lực ngày càng lệch lạc... Những điều này, và nhiều điều khác nữa, là nguyên nhân chính cho nền kinh tế rơi vào giai đoạn tăng trưởng thấp, dài nhất kể từ khi đổi mới.
Ông Vinh đã chứng kiến rất nhiều mâu thuẫn khi còn làm ở địa phương. Một ví dụ đơn giản, là miễn thủy lợi phí cho nông dân. Nhà nước rót tiền để công ty thủy nông tưới tiêu nước miễn phí. Cơ chế đó tưởng là tốt, nhưng lại làm tất cả trở nên vô trách nhiệm. Công ty thủy nông vì không thể bán sản phẩm nên không quan tâm chất lượng dịch vụ, cơ quan thủy nông của Nhà nước cũng có thể nảy sinh tiêu cực khi cấp tiền cho công ty thủy nông, và người nông dân nhiều khi để nước chảy tràn bờ mà không mấy bận tâm. “Như vậy, một tài nguyên quý như nước mà được dùng vô tội vạ”, ông Vinh kể lại câu chuyện này, và nói: “Chúng ta cứ tưởng chúng ta tốt, chúng ta đúng khi cho không. Phân bổ nguồn lực dựa vào ý chí chủ quan, trái quy luật thị trường để lại hậu quả rất nghiêm trọng”.
Cho đến gần đây, yêu cầu về việc xác định mô hình phát triển và xây dựng thể chế để phân định vai trò của Nhà nước và của thị trường lại được đặt ra. Và một đề án về cải cách thể chế kinh tế Việt Nam đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng nhằm tìm các biện pháp giải quyết tình trạng suy kiệt của nền kinh tế.
Những nỗ lực như vậy cần phải được tiến hành nhanh hơn trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Một nghiên cứu của Vụ Tổng hợp kinh tế, Bộ Ngoại giao gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tuần trước đã liệt kê hàng loạt cam kết hội nhập kinh tế quốc tế liên quan đến cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam sau khi ký kết các hiệp định như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Tự do thương mại (FTA) với EU thời gian tới.
Chẳng hạn, một số FTA, đặc biệt là TPP mà Việt Nam đang đàm phán có cam kết về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo hướng yêu cầu tất cả DNNN cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân; Nhà nước không trợ cấp cho DNNN; minh bạch hóa quản lý DNNN. Nội dung cam kết này, theo Bộ Ngoại giao, sẽ đặt ra thách thức về thể chế kinh tế.
Thứ nhất, cơ chế “xin - cho” thời gian qua đã thúc đẩy hình thành khu vực hưởng lợi trên lưng người khác (rent-seeking) thu lợi nhờ các đặc quyền hoặc độc quyền kinh doanh. Việc xóa bỏ cơ chế này đang gặp nhiều trở lực do sức ỳ lớn của nhiều DNNN và các nhóm lợi ích hưởng lợi từ cơ chế này.
Thứ hai, chế độ quản trị của DNNN ở nước ta nhìn chung còn chịu ảnh hưởng của tàn dư cơ chế quan liêu, chưa quan tâm đến các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế trong quản trị doanh nghiệp; do đó minh bạch hóa quản lý DNNN đặt ra yêu cầu cấp bách về đổi mới căn bản quản trị của DNNN.
Thứ ba, việc đặt các DNNN vào môi trường cạnh tranh “sòng phẳng” trong khi sức cạnh tranh còn hạn chế, nếu không có các thể chế hỗ trợ không loại trừ khả năng bị thâu tóm, chi phối bởi độc quyền tư nhân và/hoặc độc quyền nước ngoài, nhất là trong những lĩnh vực cần có điều tiết của Nhà nước.
Bộ Ngoại giao cho rằng trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần xác định rõ đâu là yếu tố thị trường, đâu là định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ cho rằng, thể chế kinh tế của Việt Nam có đặc thù, nhưng trước hết cần theo dòng chảy chung của nhân loại. Kinh tế thị trường là phương thức phát triển kinh tế chung của thế giới hiện nay, phải chăng định hướng xã hội chủ nghĩa là nói đến bản chất và vai trò của Nhà nước ta.
Với cách tiếp cận như vậy và trên cơ sở kinh nghiệm của các nước, có thể phân định rõ vai trò của thị trường và Nhà nước trong kết cấu thể chế kinh tế ở nước ta như sau:
Thứ nhất, tôn trọng quy luật của thị trường, để thị trường giữ vai trò quyết định phân bổ hiệu quả các nguồn lực. Trong hội nhập quốc tế, Nhà nước có vai trò quan trọng, nhưng doanh nghiệp và xã hội giữ vai trò quyết định thành công và hiệu quả của hội nhập. Vì vậy, cần tạo dựng được các thể chế thị trường hiện đại để khơi dậy và giải phóng tối đa tiềm năng, sáng tạo và sức sản xuất của toàn xã hội.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường được thể hiện đồng thời dưới hai góc độ: (i) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế để dẫn lái kinh tế Việt Nam theo quỹ đạo kinh tế thị trường hiện đại. (ii) Cần có các thể chế bảo đảm tôn trọng và củng cố các nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường như quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.
Thứ hai, về vai trò của Nhà nước. Nhà nước nên tập trung làm tốt các chức năng cốt lõi: (i) Ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ các nền tảng tích cực của kinh tế thị trường; (ii) Khắc phục, sửa chữa các khiếm khuyết và thất bại của thị trường nhằm bảo đảm phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực; (iii) Thực hiện tốt các chức năng xã hội nhằm bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội.
Những cuộc thảo luận về cải cách thể chế đang được nhiều cơ quan tiến hành trên diện rộng. Tất cả những nỗ lực đó là nhằm tổng kết 30 năm đổi mới ở Việt Nam. Liệu câu hỏi làm băn khoăn bộ trưởng cách đây gần 30 năm có được giải đáp thỏa đáng?
Cho đến gần đây, yêu cầu về việc xác định mô hình phát triển và xây dựng thể chế để phân định vai trò của Nhà nước và của thị trường lại được đặt ra. Và một đề án về cải cách thể chế kinh tế Việt Nam đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng nhằm tìm các biện pháp giải quyết tình trạng suy kiệt của nền kinh tế.
Những nỗ lực như vậy cần phải được tiến hành nhanh hơn trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Một nghiên cứu của Vụ Tổng hợp kinh tế, Bộ Ngoại giao gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tuần trước đã liệt kê hàng loạt cam kết hội nhập kinh tế quốc tế liên quan đến cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam sau khi ký kết các hiệp định như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Tự do thương mại (FTA) với EU thời gian tới.
Chẳng hạn, một số FTA, đặc biệt là TPP mà Việt Nam đang đàm phán có cam kết về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo hướng yêu cầu tất cả DNNN cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân; Nhà nước không trợ cấp cho DNNN; minh bạch hóa quản lý DNNN. Nội dung cam kết này, theo Bộ Ngoại giao, sẽ đặt ra thách thức về thể chế kinh tế.
Thứ nhất, cơ chế “xin - cho” thời gian qua đã thúc đẩy hình thành khu vực hưởng lợi trên lưng người khác (rent-seeking) thu lợi nhờ các đặc quyền hoặc độc quyền kinh doanh. Việc xóa bỏ cơ chế này đang gặp nhiều trở lực do sức ỳ lớn của nhiều DNNN và các nhóm lợi ích hưởng lợi từ cơ chế này.
Thứ hai, chế độ quản trị của DNNN ở nước ta nhìn chung còn chịu ảnh hưởng của tàn dư cơ chế quan liêu, chưa quan tâm đến các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế trong quản trị doanh nghiệp; do đó minh bạch hóa quản lý DNNN đặt ra yêu cầu cấp bách về đổi mới căn bản quản trị của DNNN.
Thứ ba, việc đặt các DNNN vào môi trường cạnh tranh “sòng phẳng” trong khi sức cạnh tranh còn hạn chế, nếu không có các thể chế hỗ trợ không loại trừ khả năng bị thâu tóm, chi phối bởi độc quyền tư nhân và/hoặc độc quyền nước ngoài, nhất là trong những lĩnh vực cần có điều tiết của Nhà nước.
Bộ Ngoại giao cho rằng trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần xác định rõ đâu là yếu tố thị trường, đâu là định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ cho rằng, thể chế kinh tế của Việt Nam có đặc thù, nhưng trước hết cần theo dòng chảy chung của nhân loại. Kinh tế thị trường là phương thức phát triển kinh tế chung của thế giới hiện nay, phải chăng định hướng xã hội chủ nghĩa là nói đến bản chất và vai trò của Nhà nước ta.
Với cách tiếp cận như vậy và trên cơ sở kinh nghiệm của các nước, có thể phân định rõ vai trò của thị trường và Nhà nước trong kết cấu thể chế kinh tế ở nước ta như sau:
Thứ nhất, tôn trọng quy luật của thị trường, để thị trường giữ vai trò quyết định phân bổ hiệu quả các nguồn lực. Trong hội nhập quốc tế, Nhà nước có vai trò quan trọng, nhưng doanh nghiệp và xã hội giữ vai trò quyết định thành công và hiệu quả của hội nhập. Vì vậy, cần tạo dựng được các thể chế thị trường hiện đại để khơi dậy và giải phóng tối đa tiềm năng, sáng tạo và sức sản xuất của toàn xã hội.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường được thể hiện đồng thời dưới hai góc độ: (i) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế để dẫn lái kinh tế Việt Nam theo quỹ đạo kinh tế thị trường hiện đại. (ii) Cần có các thể chế bảo đảm tôn trọng và củng cố các nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường như quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.
Thứ hai, về vai trò của Nhà nước. Nhà nước nên tập trung làm tốt các chức năng cốt lõi: (i) Ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ các nền tảng tích cực của kinh tế thị trường; (ii) Khắc phục, sửa chữa các khiếm khuyết và thất bại của thị trường nhằm bảo đảm phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực; (iii) Thực hiện tốt các chức năng xã hội nhằm bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội.
Những cuộc thảo luận về cải cách thể chế đang được nhiều cơ quan tiến hành trên diện rộng. Tất cả những nỗ lực đó là nhằm tổng kết 30 năm đổi mới ở Việt Nam. Liệu câu hỏi làm băn khoăn bộ trưởng cách đây gần 30 năm có được giải đáp thỏa đáng?
Luật Á Đông theo Tư Giang (TBKTSG)
- Mỗi người Việt Nam đang “gánh” 20 triệu đồng nợ công: Có nguy hiểm?
- Nợ công Việt Nam tăng lên trên 886,36 USD/người dân
- Dòng tiền đang "chạy quanh" thế nào trong nền kinh tế?
- Nếu kinh tế Trung Quốc sụp đổ…
*****************************************
"Công ty Luật Á Đông: Dịch vụ thành lập công ty, business registration certificate, thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh, thủ tục thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh, thủ tục chuyển nhượng đất đai, sở hữu trí tuệ, M&A, thủ tục giải quyết tranh chấp, hợp đồng, các thủ tục hành chính, consular legalization in Vietnam, và các dịch vụ pháp lý khác...hotline: 0904253822 - 04.66814111".
Giới thiệu
CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!
Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.
Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...
Hotline
Hotline:024.665.69.121 - |
Tiêu điểm
Thống kê