Thứ sáu, 29-08-2014 , 10:36:00 AM

Adong law firm's Declaration: Việc đăng tải bài viết dưới đây nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền chính sách pháp luật, không nhằm mục đích thương mại. Thông tin trong bài viết thể hiện quan điểm của tác giả bài viết, chỉ có giá trị tham khảo, một số văn bản pháp luật được viện dẫn có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại, vì vậy khi vận dụng các thông tin này quý vị cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.
_________________________

A khởi kiện B để yêu cầu Toà án giải quyết “ly hôn, tranh chấp chia tài sản chung, nợ chung của vợ chồng khi ly hôn”. Về tài sản chung: A và B đều thừa nhận đã cùng nhau tạo lập được nhiều tài sản gồm nhà, đất…có tổng trị giá 1 tỷ đồng. Về nợ chung: cả A và B cũng đều thừa nhận có nợ C, D, E mỗi người 200 triệu đồng.
Tuy nhiên, các chủ nợ đều từ chối tham gia tố tụng, chỉ yêu cầu Toà án giao trách nhiệm trả nợ cho A hoặc B hoặc cả A và B để họ có căn cứ đòi nợ khi các khoản nợ này đến hạn trả nợ.

Thực tiễn, khi giải quyết tranh chấp tài sản chung, nợ chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp nêu trên đang có hai cách hiểu và áp dụng pháp luật như sau:

Cách thứ nhất:

Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ nợ: Vì các chủ nợ từ chối tham gia tố tụng, họ cũng chưa yêu cầu A và B trả nợ nên việc giải quyết vụ án không liên quan và không ảnh hưởng gì đến quyền và lợi ích của họ. Do đó, Toà án không đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung, nợ chung:  A và B đã thống nhất tổng giá trị tài sản chung và cùng có công sức đóng góp như nhau nên xác định tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng có giá trị 1 tỷ đồng, mỗi người được chia các tài sản có trị giá 500 triệu. Về nợ chung: Giao trách nhiệm cho A trả nợ cho C, D mỗi người 200 triệu đồng khi các khoản nợ này đến hạn và B có trách nhiệm trả nợ cho E số tiền 200 triệu đồng khi khoản nợ này đến hạn. B thanh toán chênh lệch về số tiền trả nợ chung cho A 100 triệu đồng. Vì A và B có tổng nợ chung là 600 triệu đồng nên sau khi trừ đi nợ chung này, tổng giá trị tài sản của vợ chồng còn 400 triệu, tương ứng mỗi người thực hưởng 200 triệu. Do đó, án phí chia tài sản mỗi người phải chịu 200 triệu x 5% = 10 triệu đồng.
Về quyền kháng cáo phúc thẩm: Toà án chỉ tuyên quyền kháng cáo cho A và B.

Cách thứ hai:

Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng: Mặc dù các khoản nợ đều chưa đến hạn trả nợ và chủ nợ từ chối tham gia tố tụng nhưng họ đều có yêu cầu khi giải quyết ly hôn cho A và B, Toà án phải giao trách nhiệm trả nợ cụ thể cho A hoặc B hoặc cả A và B, để họ có căn cứ đòi nợ khi đến hạn. Bên cạnh đó, A và B có tranh chấp với nhau và yêu cầu Toà án phân chia nợ chung; việc giải quyết phân  chia nợ chung giữa A và B, xác định trách nhiệm trả nợ có liên quan trực tiếp tới quyền lợi của các chủ nợ là C, D, E. Do vậy, Toà án phải đưa C, D, E vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan trong vụ án.

Việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung, nợ chung:  Xác định A và B có khối tài sản chung có tổng trị giá 1 tỷ đồng. Do không có chủ nợ nào có yêu cầu độc lập trong vụ án nên khối tài sản chung của vợ chồng mà Toà án phải phân chia có tổng trị giá 1 tỷ, mỗi người được chia các tài sản có tổng trị giá 500 triệu. Về nợ chung: giao trách nhiệm cho A trả nợ cho C, D mỗi người 200 triệu đồng khi các khoản nợ này đến hạn và B có trách nhiệm trả nợ cho E số tiền 200 triệu đồng khi khoản nợ này đến hạn. B thanh toán chênh lệch về số tiền trả nợ chung cho A 100 triệu đồng. Vì các chủ nợ không có yêu cầu độc lập và Toà án không giải quyết buộc A và B phải trả nợ chung trong vụ án này nên trị giá tài sản chung mỗi người được chia là 500 triệu đồng. Do đó, án phí chia tài sản mỗi bên phải chịu là 20 triệu + 4% x 100 triệu = 24 triệu.

Về quyền kháng cáo phúc thẩm: Toà án tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự gồm: A, B, C, D, E.
Những người có quan điểm theo cách giải quyết thứ nhất cho rằng: Chỉ cần khi giải quyết ly hôn nếu nguyên đơn, bị đơn và chủ nợ thống nhất có nợ chung thì bất luận khoản nợ đó đến hạn hay chưa đến hạn và chủ nợ tham gia tố tụng hay từ chối tham gia tố tụng, Toà án đều phải xác định: Lấy tổng giá trị tài sản chung trừ đi tất cả các khoản nợ chung, còn lại bao nhiêu thì chia đôi cho mỗi bên, đồng thời coi đó là trị giá tài sản họ thực hưởng và trị giá này dùng làm căn cứ tính án phí vì khoản 2 Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định rõ “….mỗi bên đương sự phải nộp án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng. Theo đó, A và B mỗi người chỉ phải chịu 10 triệu đồng tiền án phí tương ứng với trị giá tài sản mà mỗi người thực hưởng 200 triệu đồng.
Toà án không đưa C, D, E vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp vì các khoản nợ chưa đến hạn và họ từ chối tham gia tố tụng.

Những người có quan điểm theo cách giải quyết thứ hai, đồng thời là quan điểm của tác giả cho rằng: Vì không có chủ nợ nào có yêu cầu độc lập nên khi phân chia tài sản chung của vợ chồng A, B, khối tài sản chung này vẫn có tổng trị giá 1 tỷ đồng và thực tế mỗi người đã được chia 500 triệu. Điều này cho thấy, tại thời điểm Toà án quyết định thì thực tế A và B mỗi người được chia và được hưởng 500 triệu đồng, tương ứng mỗi người phải chịu 24 triệu đồng tiền án phí chia tài sản chung là phù hợp với khoản 7 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án; khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Quan điểm thứ nhất cho rằng vì trong tương lai A và B sẽ phải trả nợ 600 triệu đồng cho các chủ nợ khi đến hạn nên tài sản chung của A và B chỉ còn lại 400 triệu đồng tại thời điểm Toà án phân chia là không có căn cứ và không phù hợp với thực tế. Với cách giải quyết thứ nhất có thể tạo điều kiện cho các bên đương sự “lách luật”, cố tình hợp thức hoá chứng cứ, tạo ra các khoản nợ chưa đến hạn (không có thật) để được Toà án trừ hết vào tài sản chung, còn bao nhiêu chia đôi mới tính án phí. Như vậy, sẽ có trường hợp nợ chung chưa đến hạn lớn hơn tổng trị giá tài sản chung nên sau khi trừ hết nợ, tài sản chung của vợ chồng còn 0 đồng và đương nhiêu họ không phải chịu án phí chia tài sản.
Về phía các chủ nợ, mặc dù tất cả các khoản nợ chưa đến hạn trả nợ, đồng thời họ từ chối tham gia tố tụng, chỉ yêu cầu Toà án giao trách nhiệm trả nợ, phù hợp với yêu cầu của cả A và B, nhưng nếu Toà án không xác định các chủ nợ (C, D, E) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án như quan điểm thứ nhất sẽ dẫn đến việc: C, D, E không phải là đương sự trong vụ án nhưng quyền lợi của họ vẫn được Toà án đề cập, quyết định giải quyết trong vụ án là không phù hợp với khoản 4 Điều 56 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trường hợp nếu C, D, E không đồng ý với phương án giao trách nhiệm trả nợ mà Toà án đã giao cho A, B thì họ sẽ không có căn cứ để bảo vệ quyền lợi của mình vì khi đó họ không có quyền kháng cáo bản án vì không phải là đương sự trong vụ án. Việc C, D, E từ chối tham gia tố tụng, các khoản nợ chưa đến hạn không phải là căn cứ để cho rằng họ không có quyền lợi gì trong vụ án và không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bởi A và B đang yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp nợ chung, phân chia nợ chung. Khi Toà án xác định các khoản nợ này là nợ chung và phân chia trách nhiệm trả nợ cho A, B, có nghĩa là với trách nhiệm, nghĩa vụ trả nợ của A hoặc B hoặc cả A và B khi đến hạn trả nợ sẽ tương ứng với quyền đòi nợ của C, D, E. Do vậy, mặc dù các chủ nợ từ chối tham gia tố tụng, Toà án vẫn phải xác định và đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì mới bảo đảm quyền lợi  cho họ.
Thực tiễn đang có hai cách hiểu, áp dụng pháp luật và giải quyết vụ án như nêu trên và tại khoản 3 Điều 13 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng thẩm phán TANDTC chỉ hướng dẫn “vợ chồng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản họ được chia sau khi trừ đi giá trị phần tài sản mà họ có nghĩa vụ đối với người có yêu cầu độc lập” mà không hướng dẫn trường hợp nếu người này (chủ nợ) không có yêu cầu độc lập thì có được trừ đi các khoản nợ chưa đến hạn hay không. So sánh hai cách giải quyết nêu trên thì số tiền án phí chia tài sản mỗi người phải chịu có sự chênh lệch 14 triệu đồng và nếu theo cách giải quyết thứ nhất thì ngân sách Nhà nước sẽ thiệt hại số tiền 28 triệu đồng. Trường hợp vợ chồng có càng nhiều khoản nợ chưa đến hạn và chủ nợ chưa có yêu cầu giải quyết ngay thì so với cách giải quyết thứ hai, cách thứ nhất sẽ gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền án phí không hề nhỏ. Bên cạnh đó, với cách giải quyết thứ nhất, sẽ không bảo đảm quyền lợi cho các chủ nợ khi Toà án không xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Tác giả rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc về trường hợp nêu trên.


Tác giả Nguyễn Thành Duy - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai (Nguồn: TANDTC)
_________________________
Hãy tăng thu nhập của bạn cùng chúng tôi: Chương trình chiết khấu 20% - 25% trên tổng giá trị mỗi hợp đồng mà bạn giới thiệu cho Công ty Luật Á Đông .....

______________________
"Công ty Luật Á Đông: Dịch vụ thành lập công ty, dịch vụ kế toán, business registration certificate, thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh, thủ tục thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh,  thủ tục chuyển nhượng đất đai, sở hữu trí tuệ, M&A, thủ tục giải quyết tranh chấp, hợp đồng, các thủ tục hành chínhconsular legalization in Vietnam,  và các dịch vụ pháp lý khác...hotline: 0904253822 - 04.35659523"

Giới thiệu

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.

Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...

Hotline

Hotline:

024.665.69.121 -

Thống kê