Thứ ba, 09-09-2014 , 11:54:00 AM

Adong law firm's Declaration: Việc đăng tải bài viết dưới đây nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền chính sách pháp luật, không nhằm mục đích thương mại. Thông tin trong bài viết thể hiện quan điểm của tác giả bài viết, chỉ có giá trị tham khảo, một số văn bản pháp luật được viện dẫn có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại, vì vậy khi vận dụng các thông tin này quý vị cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.
_________________________

Ngày 29/7/2011 Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính. Tại Điều 1 Nghị quyết nêu trên có qui định:

“1. Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó), bao gồm:
a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;
b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản này…”
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy vẫn còn có vướng mắc nhất định trong việc xác định đối tượng khởi kiện như trường hợp cụ thể sau đây:
Tháng 12 năm 2006, bà Nguyễn Thị A có đơn khiếu nại gửi Chủ tịch UBND thị xã TN, tỉnh TN đề nghị ông Trần Văn B trả lại phần đất nông nghiệp có diện tích 1.000 m2 tại thị xã TN do ông B đang chiếm giữ của bà.
Ngày 11/01/2007, Chủ tịch UBND thị xã TN, tỉnh TN ban hành Quyết định số 16/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị A với ông Trần Văn B với nội dung: Chấp nhận đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị A; buộc ông Trần Văn B phải trả lại phần đất nông nghiệp đang tranh chấp cho bà Nguyễn Thị A.
Do ông Trần Văn B khiếu nại, ngày 01/12/2008, Chủ tịch UBND tỉnh TN ban hành Quyết định số 2764/QĐ-UBND quyết định: thu hồi Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 11/01/2007 của Chủ tịch UBND thị xã TN, tỉnh TN; giữ nguyên hiện trạng phần đất đang tranh chấp cho ông B quản lý sử dụng.
Sau khi có khiếu nại của bà Tam, ngày 02/12/2010, Chủ tịch UBND tỉnh TN ban hành Quyết định số 2246/QĐ-UBND với nội dung: thu hồi Quyết định số 2764/QĐ-UBND ngày 01/12/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh TN về việc thu hồi Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 11/01/2007 của Chủ tịch UBND thị xã TN; giữ nguyên Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 11/01/2007 của Chủ tịch UBND thị xã TN về việc giải quyết đơn khiếu nại giữa bà Nguyễn Thị A với ông Trần Văn B, buộc ông B phải trả lại phần đất tranh chấp cho bà A.
Trên cơ sở phúc tra của Thanh tra tỉnh TN, ngày 06/01/2014, Chủ tịch UBND tỉnh TN ban hành Quyết định số 29/QĐ-UBND với nội dung: công nhận khiếu nại của ông Trần Văn B là đúng, hủy bỏ Quyết định số 2246/QĐ-UBND ngày 02/12/2010 và Quyết định số 2764/QĐ-UBND ngày 01/12/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh TN vì các quyết định này không đúng theo qui định của pháp luật về đất đai và Luật khiếu nại, tố cáo; giao UBND thị xã TN ban hành quyết định hủy bỏ Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 11/01/2007 của Chủ tịch UBND thị xã Tây Ninh, công nhận diện tích đất tranh chấp cho ông Trần Văn B.
Do không đồng ý với Quyết định số 29/QĐ-UBND ngày 06/01/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh TN, ngày 13/02/2014, bà Nguyễn Thị A có đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 29/QĐ-UBND ngày 06/01/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh TN.
Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về xác định đối tượng khởi kiện trong trường hợp này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyết định số 29/QĐ-UBND ngày 06/01/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh TN là quyết định giải quyết khiếu nại mang tính chỉ đạo, nội dung không quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể nên không được xem là đối tượng khởi kiện để thụ lý vụ án hành chính. Do đó, Tòa án phải căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 109 Luật tố tụng hành chính để ban hành Thông báo trả lại đơn khởi kiện cho bà Nguyễn Thị A.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyết định số: 29/QĐ-UBND ngày 06/01/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh TN được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung hủy bỏ toàn bộ hai quyết định (Quyết định số 2246/QĐ-UBND ngày 02/12/2010 và Quyết định số 2764/QĐ-UBND ngày 01/12/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh TN) được hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số qui định của Luật tố tụng hành chính nên phải được xem là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, Tòa án phải ban hành thông báo yêu cầu bà Nguyễn Thị A nộp tiền tạm ứng án phí sau đó tiến hành thụ lý vụ án hành chính.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ nhất với lý do sau đây:

Để có thể xem xét một quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thì quyết định hành chính đó phải thỏa mãn các đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, về hình thức, quyết định hành chính phải thể hiện bằng văn bản.
- Thứ hai, quyết định đó phải là quyết định hành chính cá biệt.
- Căn cứ vào tính chất pháp lý, quyết định hành chính gồm 3 loại: Quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá biệt; trong đó, chỉ có quyết định hành chính cá biệt mới là đối tượng xét xử của Toà án. Quyết định cá biệt hay còn gọi là quyết định áp dụng quy phạm pháp luật là quyết định được ban hành trên cơ sở các quyết định chủ đạo và quy phạm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có những trường hợp được ban hành trên cơ sở quyết định cá biệt của cơ quan cấp trên.
Quyết định chủ đạo và quyết định quy phạm chứa đựng những quy tắc xử sự chung, tác động đến đối tượng rộng lớn. Quyết định cá biệt là những quyết định chỉ áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể để giải quyết các trường hợp các biệt, cụ thể và có hiệu lực đối với các đối tượng cụ thể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì thế quyết định cá biệt trực tiếp xâm hại đến lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Đối chiếu với trường hợp nêu trên thì Quyết định số 29/QĐ-UBND ngày 06/01/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh TN được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung hủy bỏ toàn bộ hai quyết định (Quyết định số 2246/QĐ-UBND ngày 02/12/2010 và Quyết định số 2764/QĐ-UBND ngày 01/12/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh TN), nhưng chưa xâm hại trực tiếp đến quyền lợi của bà Nguyễn Thị A nên xem đây không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Nếu sau khi UBND thị xã TN ban hành quyết định hành chính theo sự chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh TN mà ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Nguyễn Thị A thì bà Nguyễn Thị A có quyền thực hiện việc khiếu nại hoặc khởi kiện theo qui định của pháp luật và có thể xem đây là sự việc mới.
Do có sự nhận thức khác nhau về xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp nêu trên, rất mong các bạn đọc cùng tham gia trao đổi ý kiến. Chúng tôi cũng kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao cần sớm có văn bản hướng dẫn bổ sung về vấn đề này nhằm tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
 
Mai Văn Triến - Chánh tòa Tòa hành chính, TAND tỉnh Tây Ninh

_________________________
Hãy tăng thu nhập của bạn cùng chúng tôi: Chương trình chiết khấu 20% - 25% trên tổng giá trị mỗi hợp đồng mà bạn giới thiệu cho Công ty Luật Á Đông .....

______________________
"Công ty Luật Á Đông: Dịch vụ thành lập công ty, dịch vụ kế toán, business registration certificate, thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh, thủ tục thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh,  thủ tục chuyển nhượng đất đai, sở hữu trí tuệ, M&A, thủ tục giải quyết tranh chấp, hợp đồng, các thủ tục hành chínhconsular legalization in Vietnam,  và các dịch vụ pháp lý khác...hotline: 0904253822 - 04.66814111"

Giới thiệu

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.

Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...

Hotline

Hotline:

024.665.69.121 -

Thống kê