Chủ nhật, 13-07-2014 , 10:43:00 AM

Tóm tắt: Bài viết đề cập và phân tích một số vấn đề liên quan đến việc xác định các giao dịch bị coi là vô hiệu theo quy định của Luật Phá sản năm 2004, qua đó tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.
 
1. Các giao dịch pháp lý vô hiệu theo quy định của Luật Phá sản năm 2004
 
Theo quy định tại Điều 43 Luật Phá sản năm 2004, các loại giao dịch sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bị coi là vô hiệu nếu được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
 
  • Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác. Đây là giao dịch được liệt kê đầu tiên trong danh mục các giao dịch được tuyên bố vô hiệu, vì bản chất của chúng đi ngược lại với mục tiêu tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lợi nhuận. Giao dịch này có đặc điểm là doanh nghiệp chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình mà không nhận lại bất kỳ một lợi ích vật chất nào. Điều này là trái với mục đích liên quan đến hoạt động thương mại là kiếm lời, nhưng ở đây doanh nghiệp lại làm mình thâm hụt tài sản. Vì vậy, trong mọi trường hợp thì các giao dịch này cũng bị tuyên vô hiệu. Tặng cho ở đây phái hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hành vi mang tài sản của mình cho người khác bàng nhiều hình thức khác nhau, kể cả việc đóng góp phúc lợi, khen thưởng hoặc tài trợ một cách bất hợp lý hay phung phí tài sản một cách quá đáng trong trường hợp doanh nghiệp đang thực hiện các nghĩa vụ về tài sản đối với các chủ nợ.
  • Thanh toán hợp đồng song vụ, trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia. Giao dịch này có đặc điểm là sự không tương xứng về lợi ích giữa các bên tham gia, bên thương nhân bị phá sản có nghĩa vụ lớn hơn so với bên kia, hay nói cách khác, lợi ích mà doanh nghiệp này nhận lại ít hơn so với lợi ích phải mất đi cho phía bên kia. Khoản 5 Điều 6 Luật Phá sản 2004 quy định: “Hợp đồng song vụ là hợp đồng trong đó các bên tham gia kí kết đều có quyền và nghĩa vụ; quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại”. Điều này cho thấy, việc cân bằng quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng song vụ là cơ sở để xác định một giao dịch có bị vô hiệu? Khác với giao dịch tặng cho, ở hành vi này tuy doanh nghiệp có thu được một số lợi ích vật chất nhất định nhưng phần lợi ích mà doanh nghiệp nhận lại rõ ràng thua kém hơn so với những gì mà doanh nghiệp bỏ ra, và thực chất đây là trường hợp doanh nghiệp từ bỏ bớt quyền thụ hưởng lợi ích chính đáng của mình. Như vậy, các hợp đồng kiểu này cũng làm cho tài sản của doanh nghiệp bị suy giảm.
  • Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn. Về bản chất thương mại, thì việc thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn không phải là hành vi bất thường. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng không thể trả được các khoản nợ tới hạn mà có hành vi trả nợ như vậy thì buộc phải xem đây là hành vi không bình thường. Phá sản là một cơ chế thanh toán nợ tập thể, việc lấy nợ của một cá nhân nào đó trên khối tài sản của con nợ khi con nợ đã lâm vào tình trạng phá sản cần phải có sự kiểm soát và ngăn chặn. Con nợ có thể vì “ưu ái” chủ nợ hoặc một số chủ nợ nào đó làm ảnh hưởng đến khả năng và hiệu suất thu hồi nợ của các chủ nợ còn lại trong cơ chế lấy nợ tập thể. Vì vậy, vô hiệu việc thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn là cần thiết nhằm bảo đảm cho cơ chế lấy nợ tập thể và sự bình đẳng giữa các chủ nợ, đồng thời ngăn chặn sự thông đồng giữa doanh nghiệp phá sản với chủ nợ hoặc một nhóm chủ nợ nào đó để tẩu tán tài sản trong hoàn cảnh nhất định.
  • Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ. Thực chất đây là trường hợp “thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ không có bảo đảm trước đó”. Việc thực hiện các biện pháp bảo đảm bằng tài sản cho các khoản nợ trước đó không có bảo đảm là hành vi của con nợ tạo ra sự đối xử không công bàng giữa các chủ nợ không có bảo đảm trong việc đòi nợ thông qua thủ tục phá sản. Cụ thể, rủi ro về khả năng và hiệu suất thu hồi nợ của một số chủ nợ được giảm thiểu, thậm chí không còn, trong khi các chủ nợ không có bảo đảm khác vẫn phải đối mặt với rủi ro này. Để đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ nợ, kiểm soát và ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản của doanh nghiệp mắc nợ thông qua việc câu kết với một hoặc một số chủ nợ, việc vô hiệu hóa giao dịch này là cần thiết.
  • Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Pháp luật thường khó có thể trù liệu đầy đủ và chi tiết cho mọi tình huống phát sinh trên thực tế. Vì vậy, quy định mang tính mở này là một kĩ năng mà các nhà làm luật sử dụng phòng khi xuất hiện một dạng giao dịch chưa được liệt kê thì các tòa án vẫn có thể vận dụng trong quá trình xét xử.
 
Trong trường hợp các giao dịch nêu trên bị tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi được từ các giao dịch đó phải nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp. Trong điều kiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, việc can thiệp và cấm doanh nghiệp thực hiện một hoặc một số giao dịch nhất định là cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Điều 31 Luật Phá sản năm 2004 quy định về các hoạt động bị cấm hoặc bị hạn chế của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản như sau:
 
“1. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau đây:
 
a) Cất giấu, tẩu tán tài sản;
 
b) Thanh toán nợ không có bảo đảm;
 
c) Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
 
d) Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp.
 
2. Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán trước khi thực hiện:
 
a) Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản;
 
b) Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;
c) Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
 
d) Vay tiền;
 
đ) Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quvền sở hữu tài sản;
 
e) Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã”.
 
Quy định này là cần thiết trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản và ngăn chặn việc tẩu tán tài sản hoặc cố ý làm thất thoát tài sản của doanh nghiệp thông qua các giao dịch bất hợp pháp. Tuy nhiên, để chặt chẽ, hợp lý và đảm bảo tính khả thi cao, những nội dung này cần được xem xét sửa đổi, bổ sung khi hoàn thiện Luật Phá sản 2004.
 
2. Một số bất cập trong các quy định về xác định giao dịch vô hiệu
 
Thứ nhất, về việc giới hạn thời gian của các giao dịch bị coi là vô hiệu. Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản 2004 quy định: “Các giao dịch sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tinh trạng phá sản được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu..
 
Việc lâm vào tình trạng phá sản của một doanh nghiệp thường là một quá trình, liên quan đến nhiều công đoạn của chu kỳ kinh doanh, liên quan tới nhiều giao dịch mà doanh nghiệp đã thực hiện ở những giai đoạn khác nhau. Mục tiêu của việc quy định các giao dịch bị coi là vô hiệu là nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản của doanh nghiệp mắc nợ, qua đó gây thiệt hại cho chủ nợ và các chủ thể khác có liên quan. Vì vậy, một giao dịch nào đó đă được xác định rõ ràng là có mục đích tẩu tán tài sản sao chỉ có thể bị coi là vô hiệu nếu xảy ra trong phạm vi ba tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp? Khoảng thời gian ba tháng mà Luật Phá sản quy định được coi là giai đoạn “nghi vấn” và với việc xác định các giao dịch trong giai đoạn này bị coi là vô hiệu có ý nghĩa như một quy định mang tính hồi tố. Tại sao khoảng thời gian “nghi vấn” có giá trị hồi tố lại là ba tháng mà không phải là sáu tháng, chín tháng, hay dài hơn? cơ sở nào đề ấn định khoảng thời gian này là ba tháng? Có giới hạn thời gian “nghi vấn” cho tất cả các giao dịch có mục đích tẩu tán tài sản không? vấn đề đặt ra là, nếu doanh nghiệp có mục đích cất dấu tài sản, trục lợi, lừa đảo thông qua phá sản gian trá, chỉ cần họ “dàn xếp” để thực hiện các giao dịch được liệt kê tại khoản 1 Điều 43 trước ba tháng kề từ ngày tòa án thụ lý đơn là an toàn, các giao dịch này sẽ không bị coi là vô hiệu.
 
Thứ hai, về thời điếm xác định khoảng thời gian “nghi vấn” theo quy định tại khoản 1 Điều 43 là một khoảng trống pháp lý khá lớn, theo đó doanh nghiệp có thể lợi dụng đề thực hiện việc tẩu tán tài sản mà không bị coi là vi phạm. Cụ thể, thời điểm xác định được tính từ khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đến thời điểm tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản là một khoảng thời gian khá dài (30 ngày). Vậy tất cả các giao dịch được liệt kê tại khoản 1 Điều 43 nếu thực hiện ở giai đoạn này sẽ không bị coi là vô hiệu.

Thứ ba, khoản 1 Điều 43 không đưa ra định nghĩa mang tính khái quát và thể hiện bản chất của các giao dịch vô hiệu, mà chỉ liệt kê các loại giao dịch, bao gồm: i) Tặng cho động sản, bất động sản cho người khác; ii) Thanh toán hợp đống song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp rõ ràng lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia; iii) Thanh toán các nghĩa vụ chưa đến hạn; iv) Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ; v) Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản. Và với sự liệt kê năm loại giao dịch này, thì bốn loại giao dịch đầu nếu thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng kể từ thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đều bị coi là vô hiệu, dù doanh nghiệp không có mục đích tẩu tán tài sản, vì tại thời điểm thực hiện giao dịch doanh nghiệp vẫn kinh doanh có lãi và chưa phát sinh bất cứ nghĩa vụ tài sản nào với các chủ thể khác (chưa lâm vào tình trạng phá sản). Như vậy quy định này là bất họp lý, vì tặng cho tài sản, thanh toán các khoản nợ trước hạn... là quyền của doanh nghiệp, họ thực hiện những hành vi này khi chưa bị ràng buộc các nghĩa vụ tài sản với các chủ thể khác là hợp pháp, bất luận thời điểm thực hiện giao dịch nằm ở giai đoạn nào.

*****************************************

"Công ty Luật Á Đông: Dịch vụ thành lập công ty, dịch vụ kế toán, business registration certificate, thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh, thủ tục thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh,  thủ tục chuyển nhượng đất đai, sở hữu trí tuệ, M&A, thủ tục giải quyết tranh chấp, hợp đồng, các thủ tục hành chínhconsular legalization in Vietnam,  và các dịch vụ pháp lý khác...hotline: 0904253822 - 04.66814111". Nguồn: Tạp chí NN&PL

Giới thiệu

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.

Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...

Hotline

Hotline:

024.665.69.121 -

Thống kê