Thứ hai, 14-07-2014 , 05:48:00 PM

Vấn đề pháp lý liên quan:

1.     Thoả thuận trọng tài vô hiệu
2.     Trọng tài không có thẩm quyền
3.     Toà án có thẩm quyền
************

Mở phiên toà, ngày 8-6-2000 tại trụ sở Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án kinh tế giữa:

Nguyên đơn: Công ty Xây dựng và kinh doanh vật tư (gọi tắt kà C&T).
Địa chỉ: 9-19 (lầu 6) Hồ Tùng Mậu, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện: ÔNG: Nguyễn Đình Hồng, Giấy uỷ quyền số 381 ngày 6-8-1999 (có mặt)

Bị đơn: Công ty Karam Corporation

Địa chỉ: Lầu 14, toà nhà Renaissance, 989-1 Juanhdong, Namku, Inchon, Korea
Văn phòng đại diện tại Việt Nam: Lầu 20, phòng 2009B, số 37 Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện: Ông Kyu Kim, Chủ tịch Hội đồng quản trị (có mặt).
Phiên dịch bị đơn: Ông Hoàng Đại Hào, thường trú tại số 9 Công trường Lam Sơn, phường Bến nghé, quận 1 (có mặt).
Có luật sư Phan Trung Hiếu biện hộ.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Công ty Xây lắp và trang trí nội thất (gọi tắt là C&D).
Địa chỉ: 6-8 Thạch Thị Thanh, phường Tân Định, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện: ông Trần Thanh Sơn, Giám đốc công ty (có mặt).

NỘI DUNG LIÊN QUAN:

Công ty Xây dựng và kinh doanh vật tư ký cam kết với Karam Corporation (Hàn Quốc) tại Hợp đồng số 10/KR-MC ngày 28-2-1998 đặt mua một bộ búa máy đóng cọc diesel đã qua sử dụng hiệu KOBE-Model KB 60 (Năm sản xuất 1996 chất lượng hàng còn lại tại thời điểm mua lớn hơn 80% với tổng giá trị hợp đồng là 58.000,00 USD (giá CIF thành phố Hồ Chí Minh) với các điều kiện.
Tất cả các thông số kỹ thuật của búa phải đạt trên 80% so với thông số kỹ thuật đầu, và búa phải được hoạt động tốt tại thời điểm mua.

* Thời gian giao hàng là trong vòng 30 ngày sau khi nhận được L/C ở Hàn Quốc; Cảng gửi hàng là cảng chính của Hàn Quốc; Cảng dở hàng: Cảng thành phố Hồ Chí Minh.

* Thanh toán bằng tín dụng thư trả ngày (L/C at sight) cho người thụ hưởng là Karam Corporation, L/C được mở trong vòng một tuần sau khi ký hợp đồng.

Thực hiện Hợp đồng số 10/KR-MC.

Ngày 2-1-1999, Công ty C&T có đơn xin mở L/C at sight tại Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam
Ngày 4-1-1999, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam phát hành L/C số KTN990101-50 BCD với nội dung thay đổi: “Giấy chứng nhận số lượng và chất lượng do người bán cấp” thay vì như đã quy định “Giấy chứng nhận số lượng, chất lượng do nhà sản xuất cấp”.
Ngày 13-1-1999, Karam Corporation tiếp tục có văn thư đề nghị tu chỉnh lại nội dung L/C số KTN 990101-50 BCD.
Ngày 14-1-1999, các bên thống nhất tu chỉnh lại L/C số KTN 990101-50 BCD, phần được tu chỉnh lại như sau: “ L/C số KTN 990101-50 BCD này chỉ có giá trị chuyển nhượng tại Hàn Quốc, ngân hàng thông báo cũng là ngân hàng chuyển nhượng”.

Ngày 15-2-1999 hàng về cảng thành phố Hồ Chí Minh, các bên liên quan đến nhận và gia tăng (vắng mặt đại diện của Công ty Karam Corporation) Hàng giao không đúng chất lượng và chủng loại. Do đó Karam Corporation đã vi phạm Hợp đồng số 10/KR-MC ký ngày 28-12-1998 về điều khoản giao hàng không đúng quy cách chủng loại, nên Công ty Xây dựng và kinh doanh vật tư không chấp nhận nhận hàng và yêu cầu Vina Control đến kiểm định.

Sau đó, ngày 25-2-1999, Công ty Xây dựng và kinh doanh vật tư thông báo bằng văn thư cho Karam Corporation biết việc giao búa đóng cọc không đúng chủng loại búa như hợp đồng đã ký.
Kết quả kiểm định của Vina Control xác nhận ngày 2-3-1999 là hàng không đúng chủng loại theo hợp đồng số 10/KR-MC mà hai Công ty đã thoả thuận. Thay vì loại búa  KB 60 thì Công ty Karam Corporation lại chuyển về loại búa KB-45.

Để khắc phục việc vi phạm hợp đồng này, giữa Công ty Xây dựng và kinh doanh vật tư và Karam Corporation, Công ty Xây lắp và trang trí nội thất có tiến hành bàn bạc thương lượng và trao đổi giải quyết vấn đề vi phạm Hợp đồng số 10/KR-MC. Ngày 13-3-1999, Karam Corporation có văn thư thông báo cho Công ty C&T là đồng ý bồi hoàn một búa KB 60 thay cho búa KB-45 đã về cảng thành phố Hồ Chí Minh và búa máy KB60 lần này được gửi theo tàu MV Chang Yi, dự kiến tàu khởi hành ngày 8-4-1999 tại cảng INCHON (Hàn Quốc) đến cảng thành phố Hồ Chí Minh là ngày 18-4-1999.

Trên cơ sở thông báo này, ngày 23-3-1999 Công ty C&T cùng Karam Corporation tiến hành ký phục lục hợp đồng số 01/10/KR-MC phục lục Hợp đồng số 01/10/KR-MC của Hợp đồng số 10/KR-MC và ký tiếp Hợp đồng số 10B/KR-MC với nội dung phụ lục Hợp đồng là:

  • Karam Corporation có trách nhiệm bồi hoàn cho Công tu C&T một búa đóng cọc Diese KB60 có qui cách được chỉ định trong Hợp đồng số 10/KR_MC ngày 28-12-1998.
  • Công ty C&T không trả thêm bất cứ chi phí nào cho búa đóng cọc KB60 này.
  • Công ty C&T và Karam Corporation ký tiếp hợp đồng số 10B/KR-MC nhằm mục đích duy nhất là để giải phóng hàng khỏi cảng.
  • Sau khi nhận lô búa đóng cọc desel KB60 của Hợp đồng số 10B/KR-MC thì Công ty C&T nhanh chóng giải phóng búa đóng cọc KB45 cho Karam Corporation và hợp tác cùng Karam Corporation tìm người mua.
  • Trách nhiệm của Karam Corporation là gửi lô búa cọc diesel KB60 của Hợp đồng số 10B/KR-MC trước ngày 12-4-1999 và phải chịu tất cả các khoản phí phát sinh do giao hàng không đúng quy cách của Hợp đồng số 10B/KR-MC ngày 28-12-1998.

Đến ngày 12-4-1999 Karam Corporation vẫn không thực hiện việc bồi hoàn cho Công ty C&T một búa mày đóng cọc diesel KB60 khác như cam kết tại phụ lục số 1/10/KR-MC. Để cố gắng duy trì việc đàm phán giải quyết vụ việc tranh chấp, ngày 13-5-1999 Công ty C&T tiếp tục ký với Karam Corporation một biên bản thoả thuận có nội dung:

Karam Corporation đồng ý bán máy búa KB45 đang nằm tại Cảng thành phố Hồ Chí Minh cho Công ty C&T với giá 20.000,00 USD; và đống ý hoàn trả cho Công ty C&T số tiền chênh lệch theo Hợp đồng số 10/KR-MC ngày 28-12-1998 là số tiền 38.000,00 USD. Đồng thời, Karam Corporation đồng ý trả cho Công ty C&T tất cả các khoản chi phí phải thanh toán là 4.625,60 USD, cụ thể:

  • Lãi suất của khoản tiền ký quỹ mở L/C (11.600 x 9% x 2 tháng)/12:174,00 USD;
  • Lãi suất Ngân hàng (58.000 x 9% x 4 tháng)/12:1.740,00 USD;
  • Tiền phạt của Ngân hàng do thanh toán chậm:434,60 USD;
  • Phí nhập khẩu: 290,00 USD;
  • Phí giao hàng: 406,00 USD;
  • Phí Ngân hàng: 201,00 USD;
  • Giấy phép nhập khẩu: 100,00 USD;
  • Lưu kho: 1.000,00 USD;
  • Tiền phạt của Hải quan do giao hàng sai: 1.000,00 USD;
  • Phí giao nhận: 30,00 USD.

Tổng cộng số tiền Karam Corporation phải hoàn toàn trả cho Công ty C&T theo biên bản thoả thuận ngày 13-5-1999 là 42.625,60 USD, thời hạn chuyển trả là một tháng kể từ ngày ký biên bản thoả thuận. Nghĩa là hạn chót ngày 13-6-1999 Karam Corporation phải hoàn trả hết cho Công ty C&T số tiền nêu trên, nhưng Karam Corporation cũng không thực hiện nghĩa vụ này. Ngày 4-8-1999 Công ty  C&T khởi kiện vụ việc tranh chấp đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh  với những yêu cầu sau:
(Xem tiếp)

 

*****************************************

"Công ty Luật Á Đông: Dịch vụ thành lập công ty, dịch vụ kế toán, business registration certificate, thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh, thủ tục thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh,  thủ tục chuyển nhượng đất đai, sở hữu trí tuệ, M&A, thủ tục giải quyết tranh chấp, hợp đồng, các thủ tục hành chínhconsular legalization in Vietnam,  và các dịch vụ pháp lý khác...hotline: 0904253822 - 04.35659523"  

Giới thiệu

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.

Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...

Hotline

Hotline:

024.665.69.121 -

Thống kê