Thứ ba, 15-07-2014 , 07:22:00 PM

Ngày 31-5-2001, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa kháng nghị Bản án sơ thẩm nêu trên với nhận định:
Tòa án hủy cả hai hợp đồng mua bán nhà là đúng... Tuy nhiên, chủ sở hữu tài sản là bà Quỳnh hoàn toàn biết việc mua bán, vì bà Quỳnh ở  liền kề có mặt thường xuyên ở nhà, chứ không phải như bà Quỳnh khai là do mặc cảm vì bà mới đi tù về, nên không dám đòi nhà, đây là lý do không có cơ sở... Chỉ có thể buộc vợ chồng ông Chánh, bà Dĩ tự ý bán nhà phải trả giá trị tài sản cho bà Quỳnh chứ không thể buộc vợ chồng ông Sắn, bà Lý trả lại đất cho bà Quỳnh được.

Bản án sơ thẩm buộc ông sắn, bà Lý trả lại đất cho bà Quỳnh, nhưng không giải quyết gì về nhà cửa, công trình phụ, cây cối mà ông sắn, bà Lý đã tạo lập.
Vợ chồng ông sắn, bà Lý được nhận khoản tiền đền bù giải tỏa phần đất làm đường hiện nay do Ban quản lý đang tạm giữ (Bút lục 320, 321).
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số18/DSPT ngày 28-5-2002, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quvết định:
a) Y án sơ thẩm đối với phần: Buộc vợ chồng ông sắn, bà Lý phải tháo dỡ toàn bộ nguyên vật liệu nhà tạm đem đi nơi khác, để trả lại 288m2 đất ớ 8B Võ Thị Sáu cho bà Quỳnh.
1. Hủy hai giấy mua bán nhà (đã nêu ở trên) vì vô hiệu.
2. Chấp nhận sự tự nguyện của bà Dĩ nhận trách nhiệm của chồng (là ông Chánh đã chết) trả cho ông Sắn 800 đồng thay hợp tác xã Cường Thịnh.
3. Chấp nhận sự tự nguyện của bà Quỳnh trả cho ông sắn 100 đồng thay hợp tác xã Cường Thịnh.
b) Sửa Bản án sơ thẩm về phần giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu như sau: Ông sắn, bà Lý được nhận lại giá trị của 900 đồng nay là 537.200 đồng (trong đó bà Dĩ nhận trả 476.000 đồng, bà Quỳnh nhận trả 61/200 đồng, đã làm tròn các số nói trên) và 640.000 đồng là giá trị cây ăn quá bà Quỳnh chịu trách nhiệm trả. Tổng cộng ông sắn, bà Lý được nhận 1.177.200 đồng.

Các bên dân sự không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, vợ chồng ông sắn, bà Lý khiếu nại cho rằng, Tòa án cấp phúc thẩm không đưa một số người như anh Ba là người mượn nhà của bà Quỳnh; hợp tác xã Cường Thịnh; những người thừa kế của ông Chánh vào tham gia tố tụng là trái pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào sự tự nguyện của bà Quỳnh và bà Dĩ để không hủy án sơ thẩm vì không đủ người tham gia tố tụng là sai. Về nội dung, Tòa án không áp dụng Báo cáo 158/BC ngày 25-03-1985 của Tòa án nhân dân tối cao để tính lỗi trong việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo trượt giá trị nhà, nhưng Tòa án lại căn cứ vào giá gạo để tính là thiệt hại đến quyền lợi của vợ chồng ông.

Tại Quyết định số 100KN/VKSTC-KSXXDS ngày 12-12-2002, Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng với nhận định: Bản án phúc thẩm tuyên hủy các hợp đồng sang nhượng nhà trái phép, buộc ông sắn, bà Lý phải trả lại nhà cho bà Quỳnh là đúng. Tuy nhiên, khi áp dụng Điều 146 Bộ luật dân sự về giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu, Tòa án mới chỉ khôi phục tình trạng ban đầu làcác bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ông Sắn, bà Lý nhận lại 900 đồng bỏ ra mua nhà năm 1979), nhưng cần được hiểu giá trị ban đầu của 900 đồng tại thời điểm năm 1979 cho đúng để không gây thiệt hại cho ông Sắn, bà Lý. Mặt khác, cùng chưa xác định lỗi cụ thể để buộc các bên có nghĩa vụ liên quan bồi thường thiệt hại là không bảo đảm quyền lợi cho các bên đương sự; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án phúc thẩm nêu trên của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và Bản án sơ thẩm số 02/DSST ngày 25-05-2001 cùa Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm lại theo hướng phân tích trên.

 XÉT THY: 

Nguồn gốc 288m2 đất đang tranh chấp giữa bà Quỳnh với vợ chồng ông Sắn, bà Lý là đất công dược thể hiện rõ tại "Giấy chứng nhận số18/CNDD" ngày 15-4-1971 của xã trương xã Vĩnh Trường chứng nhận cho ông Phạm Trọng Dụng (ông Dụng là chồng của bà Quỳnh) tạm chiếm 937,50m đất công. Diện tích 288m2 đất đang tranh chấp chính là nơi có nhà sản xuất nước mắm nằm trong tổng diện tích 937,50m2 mà bà Quỳnh giao cho anh Ba năm 1976. Như vậy, diện tích 288m2 đất nêu trên vẫn là đất của Nhà nước, bà Quỳnh không trực tiếp quản lý từ năm 1976 đến nay, mặc dù bà Quỳnh ở liền kề. Trong khi đó, vợ chồng ông sắn, bà Lý mua nhà của hợp tác xã Cường Thịnh tuy chưa đủ thủ tục nhưng ngay thẳng và ở ổn định từ năm 1979 đến nay. Do dó, cần để vợ chồng ông Sắn, bà Lý tiếp tục sử dụng diện tích đất nêu trên là phù hợp.

Còn việc bà Quỳnh kiện “đòi nền nhà và công trình khác” đối với vợ chồng ông Sắn, bà Lý, xét thấy: tại đơn khởi kiện của bà Quỳnh ngày 24-11-1992, bà Quỳnh cho rằng, năm 1976 bà “thục” căn nhà sản xuất nước mắm 130m2 cho anh Ba để hoãn khoản nợ 100.000 đồng tiền cũ (bằng 200 đồng tiền mới). Nhưng năm 1979, anh Ba bỏ trốn đi đâu không rõ và năm 1998 anh Ba về lại cho rằng anh chỉ ở nhờ nhà của bà Quỳnh, còn số tiền 200 đồng bà Quỳnh nợ anh, anh cũng không đòi nữa, đồng thời, bà Quỳnh cũng cho rằng bà cho anh Ba mượn nhà chứ không phải thục nhà như bà trình bày ở đơn kiện năm 1992. Như vậy, bà Quỳnh đã không có sự thống nhất về việc đã thục nhà cho anh Ba hay cho anh Ba mượn nhà. Do đó, cần phải xác minh làm rõ vào năm 1976, bà Quỳnh cho anh Ba mượn nhà hay đã thục nhà cho anh Ba. Nếu bà Quỳnh đã “thục” nhà cho anh Ba, tức đã “bán nhà có điều kiện” thì khi anh Ba bỏ đi, ông Chánh có quyền quản lý và sử dụng nhà đất này; ngược lại, nếu có căn cứ cho rằng, bà Quỳnh cho anh Ba mượn nhà, thì việc ông Chánh (cha của anh Ba) tự bán nhà cho hợp tác xã Cường Thịnh, sau đó, hợp tác xã bán nhà cho vợ chồng ông sắn, bà Lý đều là trái pháp luật và ông Chánh là người có lỗi và phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án này. Vì vậy, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như bà Dĩ, anh Ba... (là người thừa kế của ông Chánh), hợp tác xã cơ giới nhẹ Cường Thịnh và vợ chồng ông sắn, bà Lý đều phải tham gia tố tụng để giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu, từ đó, xác định lỗi của từng người để bồi thường thiệt hại cho bà Quỳnh thì mới đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Bởi những lẽ trên và căn cứ vào Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,

QUYẾT ĐỊNH:

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số18/DSPT ngày 28-5-2002 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵngvà hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngàv 25-4-2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về vụ án “đòi nền nhà và công trình khác” giữa bà Thái Thị Xuân Quỳnh với vợ chồng ông Nguyễn Sắn, bà Nguyễn Thị Lý.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhán dân tỉnh Khánh Hòa điều tra, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

*****************************************

"Công ty Luật Á Đông: Dịch vụ thành lập công ty, dịch vụ kế toán, business registration certificate, thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh, thủ tục thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh,  thủ tục chuyển nhượng đất đai, sở hữu trí tuệ, M&A, thủ tục giải quyết tranh chấp, hợp đồng, các thủ tục hành chínhconsular legalization in Vietnam,  và các dịch vụ pháp lý khác...hotline: 0904253822 - 04.35659523"  

Giới thiệu

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.

Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...

Hotline

Hotline:

024.665.69.121 -

Thống kê