Thứ hai, 21-07-2014 , 03:06:00 PM

Một số ý kiến góp ý đối với Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo

Án treo là một chế định pháp lý ra đời rất sớm trong quá trình xây dựng và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam. Tại Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/12/1946, án treo được xác định là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, án treo luôn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự. Các Pháp lệnh về trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh trừng trì các tội xâm phạm tại sản riêng của công dân, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Sắc luật 003/SL của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam v.v… đều có quy định về chế định án treo.

Quan niệm án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được coi là một quan niệm thống nhất trong các văn bản pháp luật và trong nhận thức chung của mọi người. Quy định về án treo tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 là quy định được pháp điển hóa đầu tiên của Pháp luật hình sự Việt Nam. Mặc dù Bộ luật hình sự có những thay đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng chế định án treo vẫn được quy định như là một chế định truyền thống, không thể thiếu của pháp luật hình sự Việt Nam.

 Về áp dụng chế định án treo, Tòa án nhân dân tối cao và các ngành có liên quan đã ban hành rất nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện. Đơn cử một số văn bản sau đây:

  • Thông tư số 2308-NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án áp dụng án treo;
  • Nghị quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó phần II của Nghị quyết hướng dẫn về án treo;
  • Thông tư số 01/NCP2 ngày 06/4/1988 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về việc áp dụng án treo;
  • Nghị quyết số 01/89/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về án treo;
  • Công văn số 140/NCPL ngày 05/7/1990;
  • Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong đó có hướng dẫn cụ thể về căn cứ cho hưởng án treo, thời gian thử thách của án treo, tổng hợp hình phạt;
  • Công văn số 36/NCPL ngày 30/4/1992 của Tòa án nhân dân tối cao về yêu cầu các Tòa án nhận thức đúng đắn về án treo;
  • Công văn số 596/CT-HS ngày 30/12/1992 với tinh thần là nhắc nhở Tòa án các cấp áp dụng án treo đúng quy định của pháp luật;
  • Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
  • Công văn số 99/TANDTC ngày 01/7/2009 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng về án treo (Điều 1).


Ngoài ra, còn có các Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 01/02/1990 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/12/1991 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung, trong đó có một số hướng dẫn về án treo.

Như vậy, vấn đề áp dụng án treo luôn là vấn đề được quan tâm tương đối đặc biệt trong suốt quá trình ra đời, phát triển. Một nét nổi lên là ở mỗi giai đoạn khác nhau thì các hướng dẫn về án treo có những điểm không thật đồng nhất với nhau, tạo ra sự nhận thức khác nhau trong áp dụng pháp luật về án treo. Đây cũng là vấn đề bình thường của quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, hoàn thiện từ những quy định riêng, nhóm quy định hoặc toàn thể các quy định để tạo ra một bộ luật tương đối hoàn chỉnh.

Tuy nhiên, dù là tương đối, nhưng cũng cần phải đảm bảo tính đúng đắn trong nhận thức và trong áp dụng pháp luật. Hơn nữa do có quá nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng mà cho đến nay Tòa án nhân dân tối cao cũng chưa có danh sách loại bỏ những văn bản đã hết hiệu lực nên đó cũng là một khó khăn khi sử dụng văn bản pháp luật để áp dụng trong xét xử của các Tòa án.


Để giải quyết những vướng mắc, bất cập nêu trên, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo (Nghị quyết 01/2013).
Chúng tôi đánh giá cao các hướng dẫn về án treo của Nghị quyết số 01/2013 vì đã giải đáp được nhiều ý kiến khác nhau về án treo, đồng thời cũng đã sửa được một số bất cập đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trước đây về áp dụng án treo, chẳng hạn các vấn đề tính thời gian thử thách, thời điểm tính thời gian thử thách; rõ ràng, cụ thể hơn về các căn cứ để cho hưởng án treo hoặc không cho hưởng án treo v.v…
Tuy nhiên, qua nghiên cứu Nghị quyết 01/2013, chúng tôi cũng xin nêu một số suy nghĩ sau đây:

Một là: Trong bộ luật hình sự còn có khái niệm "phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng". Theo hướng dẫn tại điểm a, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 01/2013 thì không đề cập đến trường hợp này. Tuy chúng ta đều hiểu là phạm tội ít nghiêm trọng và trường hợp ít nghiêm trọng không phải là một. Vậy phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng có phải là một trong các điều kiện để cho hưởng án treo không?

Theo quan điểm của chúng tôi thì đây cũng là trường hợp có thể xem xét cho hưởng án treo. Trong thực tiễn xét xử các tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, đối với các trường hợp phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng (bị cưỡng ép, dụ dỗ, lôi kéo, kích động hoặc vợ, con, cha, mẹ che dấu, tiếp tế cho người thân thích để hoạt động chống phá cách mạng…)
Để đảm bảo thống nhất về nhận thức và áp dụng pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao nên có sự hướng dẫn thêm về vấn đề này.

Hai là: Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 01/2013 "Đối với trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giữ, tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù".

Như vậy, nếu một người đã bị tạm giam 8 tháng mà tội của họ chỉ có thể bị xử phạt 6 tháng thì Tòa án cũng không được cho hưởng án treo. Muốn cho hưởng án treo thì Tòa án buộc phải nâng mức hình phạt (thời hạn phạt tù) nhiều hơn 8 tháng và như vậy hình phạt mà họ phải chấp hành hay hình phạt mà Tòa án đã quyết định không tương xứng với tính chất, mức độ, nhân thân… của người phạm tội, cho dù là Tòa án cho họ hưởng án treo.

Chúng tôi cho rằng hướng dẫn này không hợp lý và nên sửa đổi cho phù hợp và đúng pháp luật.

Ba là: Về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách

Khoản 3 Nghị quyết 01/2013 hướng dẫn là: "Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm".
Chúng tôi đồng tình với hướng dẫn này trong trường hợp mà khi xét xử ở Tòa án cấp phúc thẩm có nhiều tình tiết mới, có những điều kiện mới mà chưa có ở Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào những tình tiết mới này để sửa bản án sơ thẩm, cho người phạm tội được hưởng án treo.

Đối với trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù, không cho hưởng án treo là sai, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, cho bị cáo được hưởng án treo mà thời điểm tính thời gian thử thách của bị cáo lại bắt đầu từ ngày tuyên án phúc thẩm là không hợp lý, xâm phạm đến quyền lợi của bị cáo vì lẽ ra nếu xét xử đúng thì Tòa án cấp sơ thẩm phải cho bị cáo hưởng án treo và bị cáo được tính thời gian thử thách từ ngày tuyên án sơ thẩm. Như vậy, rõ ràng là vì sai của Tòa án sơ thẩm mà bị cáo đã bị thiệt (hay mặc nhiên) bị kéo dài thời gian thử thách từ khi tuyên án sơ thẩm đến khi tuyên án phúc thẩm. Thời gian này không hề ngắn và ảnh hưởng hết sức lớn đến việc nếu xác định phạm tội trong thời gian thử thách, tổng hợp hay không tổng hợp hình phạt của hai bản án.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần tách điểm 3 thành hai trường hợp để phân biệt cách tính thời điểm của thời gian thử thách.

Bốn là: Khoản 5 Điều 4 Nghị quyết 01/2013 hướng dẫn "Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị hủy để điều tra lại và sau đó xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm theo hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này"

Bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm không chỉ có thể bị hủy để điều tra lại mà còn có thể bị hủy để xét xử lại vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do vậy, kể cả trường hợp bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm đều bị hủy để điều tra hay xét xử lại thì khi xét xử lại, nếu Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hay từ ngày tuyên án phúc thẩm đều được thực hiện theo hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 4 Nghị quyết 01/2013.
Do đó, khoản 5 Điều 4 Nghị quyết số 01/2013 cần sửa lại là: "…bị hủy để điều tra hoặc xét xử lại và sau đó…" cho đầy đủ.

Năm là: Các thời hạn kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính được hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết 01/2013/HĐTP-TANDTC chưa đề cập đến các trường hợp đối với người chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 137 Luật xử lý vi phạm hành chính thì:

"1. Người chưa thành niên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm.
2. Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu trong thời hạn 1 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử lý mà không tái phạm thì được coi là chưa áp dụng biện pháp xử lý hành chính".

Như vậy, thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên chỉ bằng 1/2 đối với người đã thành niên. Việc xác định thời hạn này rất quan trọng vì đó là một trong những điều kiện để Tòa án xem xét có hay không cho hưởng án treo.
Vì vậy, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn bổ sung để các Tòa nhận thức và áp dụng thống nhất quy định của pháp luật.
 

                                                                                                Thạc sỹ Nguyễn Quang Lộc( Nguyên Thẩm phán, Vụ trưởng Vụ Thống kê – Tổng hợp TAND tối cao)


Nguồn: TANDTC - Luật Á Đông đặt tiêu đề

Giới thiệu

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

CÔNG TY LUẬT Á ĐÔNG (ADONG LAWFIRM) xin kính chào Quý khách hàng!

Được chuyển đổi từ Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Á Đông (thành lập ngày 23 tháng 7 năm 2004), trải qua 20 năm hoạt động, các Luật sư chủ chốt của Công ty Luật Á Đông đã có một bề dày kinh nghiệm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.

Bên cạnh những kinh nghiệm chuyên môn, các luật sư và chuyên viên pháp lý của Công ty Luật Á Đông luôn thấm nhuần cách nghĩ " Luật sư luôn là người bạn đồng hành mang lại sự yên tâm và an toàn cho doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh ". Do vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ của mình, Công ty Luật Á Đông luôn được khách hàng đánh giá là một đơn vị tư vấn có đội ngũ nhân viên tận tâm...

Hotline

Hotline:

024.665.69.121 -

Thống kê